Thứ Bảy, 7 tháng 6, 2014
CÂU HAY TRUYỆN KIỀU ( GS.TS ĐỖ HỮU VINH)
Câu /Nội dung//Ý nghĩa
2 Chữ Tài chữ Mệnh khéo là ghét nhau Xưa nay tài mệnh không ưa nhau
3 Trải qua một cuộc bể dâu Biển xanh hóa thành ruộng dâu, tức là sự thay đổi của cuộc đời
5 Lạ gì bỉ sắc tư phong Tạo hóa đã cho mình hơn cái nọ thì phải kém cái kia
8 Phong tình cổ lục Là bộ sách nói chuyện phong tình đời xưa
10 Bốn phương phẳng lặng, hai kinh vững vàng Đời nhà Minh bên Tàu có hai kinh đô là Nam Kinh và Bắc Kinh
11 Có nhà viên ngoại họ Vương Viên ngoại tức cũng như trưởng giả
15 Đầu lòng hai ả tố nga Tố nga là người con gái đẹp
20 Khuôn trăng đầy đặn, nét ngài nở nang Ý nói cái tướng phúc hậu của Thúy Vân mặt như mặt trăng tròn, lông mày như con tằm nằm ngang
25 Làn thu thủy, nét xuân sơn Mặt trông như nước mùa thu, lông mày phơn phớt như núi mùa xuân
28 Sắc đành đòi một, tài đành họa hai Ý nói tài của Kiều thì có người sánh được, chỉ sắc thì không ai bì được
32 Nghề riêng ăn đứt Hồ cầm một trương Hồ cầm là cái đàn Tỳ bà, ngày xưa Hán Nguyên Đế có bà Chiêu Quân phải đi cống rợ Hồ, thường hay đánh cái đàn ấy cho nên mới gọi là Hồ cầm
36 Xuân xanh xấp xỉ tới tuần cập kê Cặp kê là chữ kinh Lễ, con gái đến 15 tuổi thì búi tóc và cài kê, giống như cái trâm, nghĩa là đã thành người lớn
39 Ngày xuân con én đưa thoi Ngày xuân thấm thoắt như cái thoi dệt cửi, thường làm theo hình con én
50 Thoi vàng vó rắc, tro tiền giấy bay Giấy tiền vàng bạc ở vùng Nghệ Tĩnh gọi là vàng vó
66 Nửa chừng xuân, thoắt gãy cành thiên hương Cành thiên hương là một cành hoa thơm của trời, ý nói người đàn bà đẹp
77 Sắm sanh nếp tử xe châu Nếp tử là áo quan, xe châu là linh xa
78 Vùi nông một nấm, mặc dầu cỏ hoa Vùi nông là chôn rồi bỏ đó không ai ngó đến
79 Trải bao thỏ lặn ác tà Trải bao ngày tháng
156 Một nền Đồng Tước, khóa xuân hai Kiều Hai Kiều là Đại Kiều và Tiểu Kiều đời Tam Quốc, một người lấy Tôn Sách, một người lấy Chu Du. Nếu gió Đông không giúp Chu Du trong trận Xích Bích thì hai Kiều đã bị Tào Tháo bắt đem về đài Đồng Tước:
“Đông Phong bất dữ Chu lang tiện,
Đồng Tước xuân thâm tỏa Nhị Kiều”
160 Gặp tuần Đố lá, thỏa lòng tìm hoa Lễ hội Đố lá
162 Xuân lan, thu cúc mặn mà cả hai Hoa lan mùa xuân, hoa cúc mùa thu mỗi hoa đều có vẻ đẹp riêng
190 Sen vàng lãng đãng như gần như xa Sen vàng là bước chân của người đàn bà
192 Đào nguyên lạc lối đâu mà đến đây Cuối đời nhà Tấn có một người đánh cá đi lạc vào một cái suối, đi mãi gặp chỗ tiên ở
193 Thưa rằng: Thanh khí xưa nay Cùng một thanh thì hợp nhau
195 Hàn gia ở mãi Tây Thiên Hàn gia là tệ xá
208 Giá đành tú khẩu cẩm tâm khác thường Tú khẩu là miệng thêu, cẩm tâm là lòng gấm, ý nói là người văn hay
238 Chưa xong điều nghĩ, đã đào mạch tương Bà Nga Hoàng và bà Nữ Anh ngày xưa khóc vua Thuấn bên bờ sông Tương cho nên bây giờ người ta lấy chữ Tương ví với nước mắt đàn bà
255 Mành tương phơn phớt gió đàn Mành mành căng bằng tre gió thổi vào nghe như tiếng đàn
266 Xăm xăm đè nẻo Lam Kiều lần sang Lam Kiều là chỗ thần tiên ở
275 Là nhà Ngô Việt thương gia Hồ Việt hay Ngô Việt đồng nghĩa là người đi buôn bán nay đây mai đó
306 Biết đâu Hợp Phố mà mong châu về Hợp Phố xưa thuộc về Giao Châu tức là nước Nam ta. Nay là vùng Châu Khâm, Châu Liêm bên Quảng Đông. Về thời đại Bắc thuộc ở miền bể ấy có nhiều ngọc trân châu, quan Tàu cứ bắt dân đi lấy, bao nhiêu ngọc trai đều bỏ đi nơi khác. Sau người Mạnh Thường sang làm quan có nhân chính tự nhiên ngọc trai lại về. Ý nói rằng của báu này biết là của ai mà đem trả người ta, nhân việc Kim Trọng bắt được kim thoa của Kiều để quên trên đầu tường
365 Sông Tương một giải nông sờ
Bên trông đầu nọ, bên chờ cuối kia Chàng ở đầu sông Tương, thiếp ở cuối sông Tương. Nhớ nhau không thấy mặt nhau, cùng uống nước sông Tương
410 Chẳng sân Ngọc bội thời phường Kim môn Bậc quân tử đeo ngọc để ví cái đức hạnh cũng thanh quí như ngọc. Về sau cho tiếng bội ngọc là người làm quan to, vua Hán Vũ Đế cho những người có văn học chực ở cửa Kim mã để khi có điều gì thì vua han hỏi. sau người ta lấy chữ Kim mã mà nói chỗ để tiếp các bậc văn học
434 Ngọn đèn trông lọt trướng huỳnh hắt hiu Ngày xưa người Trác Dận nhà nghèo không có đèn bắt đom đóm vào để làm đèn mà học, cho nên về sau người ta lấy chữ trướng huỳnh là màn đom đóm mà gọi cái buồng học
437 Tiếng sen sẽ động giấc hòe Giấc hòe là nhân tích Thuần Vu Phần ngày xưa ngủ dưới cây hòe chiêm bao thấy hai sứ giả vời vào làm phò mã rồi được phong làm Thái thú ở đất Nam Kha vinh hiển hơn 20 năm đến khi thức giấc dậy thì chỉ thấy đàn kiến bên mình
439 Bâng khuâng đỉnh Giáp non Thần Vua Sở Tương Vương nằm mơ thấy một nguời đàn bà đẹp lắm, hỏi là người ở đâu thì thưa rằng: Thiếp là thần nữ núi Vu Giáp, sớm làm mây tối làm mưa
453 Chén hà sánh giọng quỳnh tương Chén hà là cái chén ngọc màu vàng úa như nắng buổi chiều. quỳnh tương là chén rượu bằng nước ngọc quỳnh, uống vào trong bụng sinh ra trăm mối cảm tình
529 Cửa đài vừa ngỏ then hoa Cửa đài là cũi xếp thành cái cửa
532 Bơ vơ lữ thấn tha hương đề huề Chết chưa chôn còn quàn ở đất khách
549 Ông tơ gàn quãi chi nhau Gàn quãi là ngăn trở
603 Để lời thệ hải minh sơn Chỉ bể mà thề, chí núi mà nguyện
619 Hạt mưa sá nghĩ phận hèn Hạt mưa nghĩa là thân phận người đàn bà. Tục ngữ có câu: Thân em như hạt mưa dào, hột sa xuống giếng, hạt vào vườn hoa
621 Sự lòng ngỏ với băng nhân Băng nhân là người làm mối
694 Tinh kỳ giục giã đã mong trở về Tinh kỳ là giờ Dần hôn
703 Trời Liêu non nước bao xa Là đất Liêu Dương, chỗ Kim Trọng đi hộ tang chú
710 Khối tình mang xuống tuyền đài chưa tan Tình sử: chuyện một người con gái phải lòng một người lái buôn. Người lái buôn ấy đi không về, cô ta ốm tương tư mà chết. Đem hỏa táng xương thịt cháy cả, duy trong bụng chỉ còn một cục không sao cháy được, đập cũng không vỡ. Đến sau người lái buôn về khóc, nước mắt sa vào cục ấy tan ra huyết
726 Giao loan chắp mối tơ thừa mặc em Loan giao là một thứ keo để gắn phím đàn người ta thường dùng điều ấy nói về tình xưa nghĩa cũ đã gián đoạn đi mà nối lại được.
773 Lạy thôi, nàng lại rén chiềng Rén là thong thả, se sẽ; chiềng là trình thưa
812 Mạt cưa, mướp đắng đôi bên một phường Một người đi bán mạt cưa giả làm cám, một người bán mướp đắng giả làm dưa chuột. Hai người bán lẫn cho nhau thành hai anh bợm cùng mắc bợm
837 Nước vỏ lựu, máu mào gà Những gái thanh lâu tiếp khách xong, lấy vỏ lựu nấu lên và pha máu mào gà mà làm vệ sinh thì lại được như nguyên
869 Đoạn trường thay lúc phân kỳ Kỳ là đường rẽ, phân kỳ là mỗi người đi một ngã
871 Bề ngoài mươi dặm tràng dinh Đường đi bên Tàu, cứ 5 dặm có một cái quán gọi là đoản dinh, 10 dặm có một cái quán gọi là trường dinh
875 Nhìn càng lã chã giọt hồng Lấy điển nàng Tiết Linh Vân đời nhà Tùy, khi từ biệt song thân để ứng tuyển vào cung khóc đến nỗi những giọt nước mắt chảy ra như máu
884 Khi vào đôi đóa, khi ra vội vàng Đôi đóa là vờ vĩnh, hững hờ
901 Nghìn tầm nhờ bóng tùng quân Tùng là cây thông, quân là cây tre to, người ta hay ví hai cây này với người quân tử, có đại lượng
912 Cầu giá Lớp sương đọng trên mặt cầu
918 Thần hôn Sớm hôm hỏi thăm cha mẹ (kính lễ)
942 Hàn thực, nguyên tiêu Hàn thực là Tết mùng 3 tháng 3, Nguyên tiêu là Tết rằm tháng giêng, tục bên Tàu hai ngày Tết ấy cũng rất vui, ý nói ngày đêm nào cũng được vui như hai ngày ấy
962 Tam bành Sách Phật nói rằng: trong con người có 3 cái thần gọi là: Bành kiêu, Bành cứ, Bành chất; ba thần ấy hay xui người ta làm điều ác rồi cứ đến ngày Canh Thân lên tâu Ngọc Hoàng Thượng đế. Sách Đạo giáo gọi là Tam Thi
978 Bì tiên Roi da
1018 Túc nhân Số tiền định, là nợ nần kiếp trước
1039 Chén đồng Đồng tức là đồng tâm, lời nguyện ước
1044 Quạt nồng ấp lạnh Theo kinh Lễ, thờ cha mẹ quạt khi nồng, ấp khi lạnh
1045 Sân Lai Đời nhà Chu bên Tàu có ông Lão Lai đã 70 tuổi, cha mẹ hãy còn, một hôm ông mặc áo ngũ sắc ra sân múa rồi giả cách ngã khóc như trẻ con, để làm vui cho cha mẹ
1046 Gốc tử Là cây tử, nói ví cây tử là cha
1053 Duềnh Vực sâu
1074 Đồng vọng Nghe văng vẳng
1084 Tiện hồng Là gởi thư, bởi tích vua Hán Vũ Đế bắt được thư buộc ở chân con nhạn của Tô Vũ bên Hung nô gởi về
1087 Mở xem một bức tiên mai Tiên mai là tờ giấy hoa tiên
1100 Còn nhiều kết cỏ ngậm vành về sau Ngụy Thù người nước Tấn có một người vợ lẽ đẹp và còn trẻ. Đến khi Ngụy Thù gần chết dặn con là Ngụy Khỏa phải đem người vợ lẽ chôn chung vào một áo quan. Ngụy Thù chết rồi, người con không nghe lời ấy mà cho người vợ lẽ ấy về. Đến sau Ngụy Khỏa đi đánh tướng nhà Tần là Đỗ Hồi ở trên bãi cỏ xanh, tự nhiên Đỗ Hồi vướng chân ngã bị Ngụy Khỏa đâm chết. Đêm hôm ấy Ngụy Khỏa chiêm bao thấy cha người vợ lẽ Ngụy Thù hiện lên tạ ơn rằng: tôi cảm cái ơn ông không chôn sống con tôi cho nên kết cỏ quấn vào chân Đỗ Hồi cho nó ngã.
1107 Rằng ta có ngựa truy phong Là ngựa chạy theo được gió, tức là ngựa chạy nhanh
1108 Có tên dưới trướng vốn dòng kiện nhi Là người có sức vóc khỏe mạnh
1161 Đà đao sắp sẵn chước dùng Là miếng võ đánh hiểm chạy đi để người ta đuổi rồi quay đao lại chém… Đây có nghĩa là lừa dối.
1210 Vành ngoài bảy chữ, vành trong tám nghề Bảy chữ là: Khấp là khóc giả làm thương yêu người khách – Tiễn là cắt tóc đưa cho người khách để làm tin – Thích là thích tên người khách vào cánh tay – Thiên là đốt hương thề nguyền – Giá là hẹn hò lấy nhau – Tẩu là rủ nhau đi trốn – Tử là giả cách chết làm cho người khách quyến luyến. Tám nghề là cách thức làm tình (tục)
1234 Dập dìu lá gió cành chim Do tích nàng Tiết Dao đời nhà Đường lúc nhỏ làm bài thơ có câu: Cành đón chim Nam Bắc, lá đưa gió đi lại. Cha xem thơ biết con ngày sau chẳng ra gì.
1261 Khi về hỏi Liễu Chương Đài Hàn Hũ đời Đường có người vợ lẽ là Liễu thị khi đi làm quan xa để ở Chương Đài trong thành Trường An hơn ba năm, mỗi khi viết thư về thì gọi là Chương Đài Liễu, sau Liễu thị bị người tướng Phiên cướp đi mất. Tướng Hứa Tuấn dùng mưu cướp lại và vua lại cho về với Hàn Hũ. Hàn Hũ gửi thư cho Liễu thị có câu: Cây Liễu chương đài xưa xanh xanh nay còn không, hay là tay khác đã bẻ mất rồi.
1266 Giấc hương quan luống lần mơ canh dài Là giấc mơ thấy trở về cố hương
1268 Nay hoàng hôn đã, lại mai hôn hoàng Cứ hết chiều nay lại đến chiều mai, cứ thế mãi
1279 Hoa khôi mộ tiếng Kiều nhi Đầu các thứ hoa người đẹp nhất
1308 Đầu tường lửa lựu lập lòe đâm bông Hoa lựu màu đỏ như lửa
1312 Dày dày sẵn đúc một tòa thiên nhiên Lúc Kiều lột bỏ xiêm y ra thì trông hình dáng rất đẹp
1323 Nàng càng ủ dột thu ba Là sóng mùa thu có nghĩa là con mắt
1335 Bình Khang nấn ná bấy lâu Phố những nhà thanh lâu ở
1350 Trước hàm sư tử gởi người đằng la Đằng la là dây leo, ý nói rằng ví bằng thể vợ cả to hơn thì thành ra đem vào hàm sư tử, nghĩa là đem cho vợ cả hành hạ
1352 Giấm chua lại tội bằng ba lửa nồng Giấm chua là người đàn bà ghen, lửa nồng là thanh lâu
1371 Mượn điều trúc viện thừa lương Thừa lương là nghỉ mát, nghĩa là lấy điều đem Kiều đi chơi mát rồi đem giấu đi một nơi
1467 Bày hàng cổ xúy xôn xao Cổ xúy là bát âm (nhạc)
1684 Phi phù trí quỷ cao tay thông tuyền Phi phù trí quỷ là đốt bùa gọi được quỷ đến
1685 Trên tam đảo, dưới cửu tuyền Tam đảo là 3 đảo chỗ tiên ở: Bồng Lai, Phương Trượng và Doanh Châu. Cửu tuyền là âm phủ
1778 Trúc tơ hỏi đến nghề chơi mọi ngày Trúc là sáo, tơ là đàn
1830 Mới về, có việc chi mà động dong Động dong là đổi sắc mặt
1832 Suy lòng trắc dĩ, đau lòng chung thiên Chung thiên: không bao giờ quên
1836 Bắt nàng đứng chực trì hồ hai nơi Trì hồ là bưng hầu rượu
1855 Cũng trong một tiếng tơ đồng Tơ đồng là đàn làm bằng gỗ vông
1875 Chước đâu rẽ thúy chia uyên Thúy và uyên là giống chim hay đi có đôi
1910 Rắp đem mệnh bạc, xin nhờ cửa Không Cửa Không là cửa Phật
1926 Dường gần rừng tía, dường xa bụi hồng Rừng trúc tía là chỗ Quan Thế Âm Bồ Tát ở. Rừng tía là cảnh Phật, bụi hồng là trần tục
1930 Ngày pho thủ tự, đêm nhồi tâm hương Thủ tự là pho sách viết bằng tay, tâm hương là lấy tấm lòng làm nén hương
1931 Cho hay giọt nước cành dương
Lửa lòng tưới tắt mọi đường trần duyên Quan Thế Âm Bồ Tát nhúng cành dương vào nước Cam Lồ để rảy lên chúng sanh ở trần gian
1935 Quan phòng then nhặt lưới mau Quan phòng là canh giữ, nói về Hoạn Thư canh giữ Kiều
1944 Giọt châu tầm tã đượm tràng áo xanh
“Đã cam chịu bạc với tình
Chúa Xuân để tội một mình cho hoa!
Thấp cơ thua trí đàn bà
Trông vào đau ruột nói ra ngại lời
Vì ta cho lụy đến người
Cát lầm ngọc trắng, thiệt đời xuân xanh Nhân lúc Hoạn Thư về vấn an cha mẹ, Thúc Sinh lẻn ra Quan Âm Các ở góc vườn để gặp Kiều, than thở với Kiều và khóc, nhưng Hoạn Thư chỉ giả vờ đi về thăm cha mẹ mà đứng nấp đâu đó nên đã thấy hết sự việc
1991 Thiền trà cạn nước hồng mai Thiền trà là nước trà nhà chùa, nấu bằng củi cây mai
2058 Ngọn đèn khêu nguyệt tiếng chày nện sương Tiếng chày là tiếng dùi gõ chuông, nện sương là đánh lúc tan sương
2064 Có người đàn việt lên chơi cửa Già Đàn việt là người có công đức với chùa, về sau dùng rộng nghĩa ra gọi những người đi vãn cảnh chùa là đàn việt. Cửa Già là cửa nhà chùa. Tiếng Ấn Độ gọi chùa là Già Lam
2117
2118 Thiếp như con én lạc đàn
Phải cung rày đã sợ làn cây cong Chim đã phải cung, thấy cây cong cũng phải bay cao
2139 Cũng nhà hành viện xưa nay Hành viện là cửa hàng thanh lâu
2151
2152 Chém cha cái số đào hoa
Gỡ ra rồi lại buộc vào như chơi Theo số tử vi mà đàn bà đã phải sao Đào Hoa và sao Hồng Loan chiếu mệnh thì cả đời chỉ giang hồ
2166 Bỗng đâu có khách biên đình sang chơi Khách biên đình là khách ở biên thùy
2168 Vai năm tấc rộng thân mười thước cao Câu nói có tính cách khoa đại để biểu dương sức mạnh của Từ Hải
2174 Gươm đàn nửa gánh, non sông một chèo Thơ của Hoàng Sào là tướng giặc đời Đường có câu: Nửa vai đeo cung kiếm có trời cho, một chèo đi khắp non sông trên đất
2182 Mắt xanh chẳng để ai vào, có không? Nguyễn Tích đời nhà Tấn ngày xưa tiếp khách thấy ai là nguời đáng trọng thì mắt xanh, ai đáng khinh thì mắt trắng
2184 Bõ chi cá chậu chim lồng mà chơi! Cá chậu chim lồng là người tầm thường
2247 Cánh hồng bay bổng tuyệt vời
Đã mòn con mắt phương trời đăm đăm! Hai câu này nói Kiều mong Từ Hải đang đi hoạt động ở phương xa
2265 Sẵn sàng phượng liễn, loan nghi Kiệu phượng, màn loan, những người đàn bà có chức tước mới được dùng
2269 Hỏa bài tiền lộ ruổi mau Hỏa bài là quân kỵ mã đi báo tin trước
2307 Thệ sư kể hết mọi lời Thệ sư là lễ tế cáo trời đất, qủy thần về việc sai quân đi bắt những người thù, và hiểu dụ tướng sỹ trước khi sai đi
2312 Vệ trong thị lập, cơ ngoài song phi Thị lập là đứng hầu, song phi là đứng ra hai hàng
2314 Bác đồng chật đất tinh kỳ rợp sân Bác đồng là súng bằng đồng
2317 Tiên nghiêm trống chửa dứt lời Tiên nghiêm là hồi trống đánh lúc ra quân để cho nghiêm
2329 Sâm, Thương chẳng vẹn chữ đồng Sâm và Thương ta gọi lầm là sao hôm và sao mai, thực ra chỉ là một (kim tinh), sáng sớm thì thấy ở phương Đông, và tối thì thấy ở phương Tây vì quả đất quay
2353 Kíp truyền chư tướng hiến phù Hiến phù là đem nạp những người đã bắt được
2448 Thiếu gì cô quả, thiếu gì bá vương Thường những bậc bá vương hay tự xưng là cô hay là quả nhân, để có vẻ khiêm tốn
2450 Năm năm hùng cứ một phương hải tần Hải tần là mạn bể, bãi bể
2453 Đẩy xe vâng chỉ đặc sai Nhân chữ “thôi cốc” là đẩy cái xe, đời xưa khi tướng đi đánh giặc, vua tiễn ra đến cửa thành và lấy tay đẩy cái xe của ông tướng ngồi, ý là vua ủy thác việc đánh dẹp ở biên thùy cho ông tướng
2494 Đống xương Vô định đã cao bằng đầu Vô định là con sông chảy từ Tuy Viễn qua phủ Diên An ở Thiểm Tây vào sông Hoàng Hà. Vì có nhiều cát chỗ nông, chỗ sâu nên mới gọi là vô định. Ngày xưa quân Tàu đánh Hung Nô ở đây, hai bên chết nhiều lắm
2521 Trơ như đá vững như đồng
Ai lay chẳng chuyển, ai rung chẳng dời Là do Từ Hải mắc mưu Hồ Tôn Hiến, đút lót vàng bạc cho Kiều để Kiều nói ngon nói ngọt cho Từ Hải ra hàng nên ơ hờ việc binh bị, vì vậy bị phục binh của Hồ chết tại trận tiền và vì uất ức quá nên Từ đã chết đứng. Đến khi binh sỹ dẫn Kiều đến chỗ Từ Hải, Kiều muốn dập đầu chết theo Từ cho trọn nghĩa, đến lúc đó Từ mới ngã xuống
2543 Đã hay thành toán miếu đường Miếu đường là chốn triều đình
2544 Chấp công cũng có lời nàng mới nên Chấp công là lập công
2564 Truyền cho kiểu táng di hình bên sông Kiểu táng hay cảo táng là bọc cỏ mà chôn, nghĩa là chôn dối trá dù Kiều cảm nghĩa cũ với Từ Hải đã xin Hồ cho chôn cất tử tế nhưng Hồ không nghe vì cho rằng Từ Hải là giặc nên không được ân huệ
2565 Trong quân mở tiệc hạ công Hạ công là tiệc mừng thắng trận
2657 Có trời mà cũng tại ta
Tu là cõi phúc tình là dây oan Hai câu này nói lên cái lẽ thường tình của con người ở đời
2688 Túc khiên đã rửa lâng lâng sạch rồi Túc khiên là tội kiếp trước
2697 Đánh tranh, chụm nóc thảo đuờng Thảo đường là nhà tranh
2741 Từ ngày muôn dặm phù tang Đưa tang cũng như hộ tang
2828 Lâm Thanh mấy độ đi về dăm khơi Địa danh nơi Kim Trọng cho người đi dò la tin tức về Kiều có tên na ná với Lâm Chuy
2921 Gặp nàng thời ở Châu Thai Nơi Từ Hải gặp Kiều
2947 Năm mây bỗng thấy chiếu trời Chiếu nhà vua thuờng có vẽ mây ngũ sắc
2949 Kim thì cải nhậm Nam Bình Địa danh thuộc tỉnh Phúc Kiến bây giờ
2950 Chàng Vương cũng cải nhậm thành Phú Dương Huyện Phú Dương ở bờ sông Tiền Đường, gần Hàn châu
2972 Nào hồn Tinh vệ biết theo chốn nào Tên một loài chim. Tích con gái vua Viêm Đế chết đuối ở bể Đông, sau hóa làm chim Tinh vệ ngày ngày đến núi Tây Sơn ngậm đá đem ra lấp bể
2990 Thảo am đó, cũng gần kề chẳng xa Thảo am là chùa lợp cỏ
3104 Dám đem trần cấu dự vào bố kinh Trần cấu là đất bụi dơ bẩn
Bố kinh: tục xưa, người vợ có quyền để tang cha mẹ bằng áo quần kết bằng cỏ
3126 Khách qua đường để hững hờ chàng Tiêu Do tích vợ Tiêu lang bị người ta bắt đem dâng cho Quách Tử Nghi, từ đó về sau Tiêu lang thấy vợ thì dửng dưng như người lạ mặt
3200 Ấy là hồ điệp hay là Trang Sinh Hồ điệp là con bươm bướm, Trang Chu ngày xưa nằm mơ thấy mình hóa ra con bươm bướm
3202 Ấy hồn Thục Đế hay mình đỗ quyên Tục truyền Thục Đế ngày xưa mất nước, chết hoá làm con chim quốc đêm ngày sầu oán kêu mãi không thôi
3203 Trong sao châu rỏ duềnh quyên Là vũng nước có mặt trăng soi vào
3204 Ấm sao hạt ngọc Lam Điền mới đông Lam Điền là chỗ gieo hạt thành ra ngọc, mới đông là hòn ngọc mới thành
3236 Nghìn năm dằng dặc quan giai lần lần Làm quan cứ lên bậc một
Đăng ký:
Đăng Nhận xét (Atom)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét