Thứ Sáu, 27 tháng 2, 2015
CÂU HAY VĂN CHƯƠNG (5)
Ở Truyện Kiều, mỗi nhân vật đều có diện mạo và tính cách đặc trưng khiến họ trở thành những nhân vật điển hình, đại diện cho cả một loại người trong xã hội.
Để góp phần xây dựng các hình tượng điển hình đó, Nguyễn Du đã sử dụng nhiều phương tiện biểu thị cảm thán và các loại hành vi cảm thán nhằm thể hiện dụng ý nghệ thuật của tác giả.
Dựa vào những phân tích, đánh giá của chương 2, chúng tôi đã thống kê được 981 câu thơ có chứa hành vi cảm thán của các nhân vật và tác giả (chiếm 30,15% số câu trong Truyện Kiều) để đưa vào nội dung nghiên cứu cho chương 3.
3.1.1. Hành vi cảm thán với vai trò xây dựng hình tượng nhân vật chính diện
Truyện Kiều có 16 nhân vật chính diện, nhưng tiêu biểu nhất là ba nhân vật: Thuý Kiều, Kim Trọng và Từ Hải.
3.1.1.1. Hành vi cảm thán với vai trò xây dựng hình tượng nhân vật Thuý Kiều
• Từ ngữ cảm thán nhân vật thường sử dụng
Để làm nổi bật thế giới nội tâm vô cùng phức tạp của Thuý Kiều, tác giả đã sử dụng rất nhiều từ ngữ cảm thán trong ngôn ngữ đối thoại của nhân vật.
Kết quả khảo sát cho thấy: Thuý Kiều là nhân vật cảm thán nhiều nhất trong tác phẩm. Trong 348 câu thơ chứa hành vi cảm thán, có 245 câu nhân vật sử dụng từ ngữ cảm thán để bộc lộ thái độ, tình cảm cũng như tâm trạng lo lắng, buồn thảm, đau đớn, uất hận,... trước những bước ngoặt cay đắng trong cuộc đời.
Ví dụ: Khi Hồ Tôn Hiến ép gả nàng cho viên thổ quan, giọng thơ vang lên như tiếng kêu trời thất thanh bởi sắc thái biểu cảm vô cùng mạnh mẽ của những từ đâu, sao, đã cứ như xoáy mạnh vào lòng người:
Ví dụ 133:
Duyên đâu, ai dứt tơ đào, Nợ đâu, ai đã dắt vào tận tay ?
Thân sao, thân đến thế này,
Còn ngày nào cũng dư ngày ấy thôi.
Đã không biết sống là vui,
Tấm thân nào biết thiệt thòi là thương ! (2609-2614) Sự xuất hiện của những từ và cụm từ cảm thán: thôi, sao, chi, thay, đâu,
xiết, chẳng, chăng, cũng, ắt, mà, bấy, lại, đã, thà, ru, vay, thôi thôi, lắm thay, sá chi, làm chi, làm sao, biết bao,.... ở hàng loạt phát ngôn đã diễn tả được nhiều cảm xúc, tâm trạng đặc biệt của Thuý Kiều. Trong đó có một số từ ngữ xuất hiện nhiều hơn cả, như là: thôi: 29 lần; sao: 28 lần; chi: 28 lần ; cũng: 30 lần, đâu: 20 lần; chẳng: 18 lần; đã: 35 lần,....
Tuy vậy, không phải lúc nào những từ ngữ đó cũng chỉ truyền tải một ý nghĩa nhất định, mà trong mỗi hoàn cảnh, chúng lại giữ một vai trò biểu cảm khác nhau.
Chẳng hạn như từ thôi: thôi xuất hiện ở những dạng kết hợp: thôi thôi, thôi thế, thế thôi, thì thôi, thôi thì, thôi thì thôi, thôi thế thì thôi, mà thôi, thôi cũng, thôi đã, thôi có ra gì, thôi còn chi nữa,... đã cực tả được rất nhiều trạng thái tình cảm của nhân vật.
Ví dụ:
- Biểu thị tâm trạng đau buồn, thổn thức trong cảnh ngộ "Giữa đường đứt gánh":
Ví dụ 134:
Thề hoa chưa ráo chén vàng, Lỗi thề thôi đã phụ phàng với hoa !
...Biết bao duyên nợ thề bồi
Kiếp này thôi thế thì thôi, còn gì ! (702-706)
- Biểu thị sự chán ngán, tuyệt vọng trước khi đi đến hành động tự vẫn:
Ví dụ 135:
Thôi thì thôi có tiếc gì ! (981)
- Biểu thị sự buông xuôi, cam chịu khi phải chấp nhận làm gái lầu xanh:
Ví dụ 136:
Bây giờ sống thác ở tay,
Thân này đã đến thế này thì thôi ! (1143-1144)
- Biểu thị sự chua xót, đắng cay khi bị đẩy đến tột cùng của đớn đau và ô nhục:
Ví dụ 137:
Một mình cay đắng trăm đường,
Thôi thì nát ngọc tan vàng thì thôi (2615-2616)
.............
Đối với từ sao: sự kết hợp của từ cảm thán này cũng rất phong phú, như: biết sao, sao cho, sao bằng, hay sao, làm sao, khi sao, giờ sao, phận sao, mặt sao, thân sao,...
Trong 28 lần xuất hiện, có 10 lần sao được Thuý Kiều dùng để than:
Ví dụ 138:
Phận sao phận bạc như vôi ! (753) Cũng có khi sao được dùng trong lời cậy nhờ đối tượng:
Ví dụ 139:
Thương sao cho vẹn thì thương,
Tính sao cho trọn mọi đường xin vâng (1359-1360) Hoặc để nhân vật bộc lộ tâm trạng rối bời:
Ví dụ 140:
Bây giờ đất thấp trời cao,
Ăn làm sao, nói làm sao, bây giờ ? (1817-1818)
Hay khẳng định nhằm mục đích thuyết phục:
Ví dụ 141:
Sao bằng lộc trọng quyền cao,
Công danh ai dứt lối nào cho qua? (2497-2498)
........
Là từ thường dùng để hỏi, chi xuất hiện trong các phát ngôn của Thuý Kiều dưới các hình thức thể hiện như: làm chi, sá chi, còn chi, xiết chi, tuồng chi,...
Trong 28 lần xuất hiện, ngoài mục đích để bộc lộ những suy tư, trăn trở đang đè nặng trong lòng nhân vật:
Ví dụ 142:
Người đâu gặp gỡ làm chi,
Trăm năm biết có duyên gì hay không ? (181-182)
chi còn được dùng để than:
Ví dụ 143:
Còn chi là cái hồng nhan,
Đã xong thân thế còn toan nỗi nào? (3101-3102) hay để cực tả lòng oán hận:
Ví dụ 144:
Phũ phàng chi bấy hoá công ! (85)
Việc tác giả để nhân vật dùng lặp đi lặp lại một số từ ngữ trong những ngữ cảnh khác nhau để thể hiện các mục đích nói khác nhau, cho thấy vai trò biểu cảm của ngôn từ cảm thán là rất lớn.
• Hành vi cảm thán nhân vật thường sử dụng
Là nhân vật trung tâm có cuộc đời kéo dài suốt theo chiều tác phẩm, đón nhận tất cả mọi biến động của cuộc sống, chịu mọi nỗi đắng cay, tủi nhục, nên Thuý Kiều thường sử dụng những hành vi cảm thán như kêu than, oán trách, tiếc nuối,... để bộc lộ tâm trạng buồn khổ, xót xa, đau đớn, phẫn uất, tuyệt vọng,... của bản thân.
Ngoài việc thực hiện rất nhiều hành vi cảm thán trực tiếp với dấu hiệu hình thức là từ ngữ cảm thán, nhân vật còn thực hiện cả hành vi cảm thán gián tiếp thông qua những câu thơ sử dụng thành ngữ, quán ngữ, tục ngữ, điển tích, điển cố và biện pháp đảo ngữ để nhấn mạnh nội dung cần cảm thán.
• Các kiểu hành vi cảm thán dựa vào mục đích cảm thán
Dựa vào mục đích cảm thán, chúng tôi đã phân loại các kiểu hành vi cảm thán của Thuý Kiều (cách phân loại này cũng được chúng tôi tiến hành cho các nhân vật khác trong tác phẩm). Qua nghiên cứu, chúng tôi thấy rằng Thuý Kiều đã sử dụng rất nhiều kiểu hành vi cảm thán, nhưng tiêu biểu nhất là những hành vi sau:
- Hành vi cảm thán để than khóc:
Ví dụ 145:
Đau đớn thay, phận đàn bà ! (83)
- Hành vi cảm thán thể hiện sự ngưỡng mộ:
Ví dụ 146:
Chiếc thoa nào của mấy mươi,
Mà lòng trọng nghĩa khinh tài, xiết bao ! (309-310)
- Hành vi cảm thán để khuyên nhủ:
Ví dụ 147:
Ra tuồng trên Bộc trong dâu,
Thì con người ấy ai cầu làm chi? (507-508)
- Hành vi cảm thán để oán trách:
Ví dụ 148:
Ông tơ ghét bỏ chi nhau
Chưa vui sum họp, đã sầu chia phôi. (549-550)
- Hành vi cảm thán để hứa hẹn, thề nguyền:
Ví dụ 149:
Cùng nhau đã trót nặng lời,
Dẫu thay mái tóc, dám dời lòng tơ? (551-552)
- Hành vi cảm thán bộc lộ sự phẫn uất:
Ví dụ 150:
Nàng rằng: "Trời thẳm đất dày !
Thân này đã bỏ những ngày ra đi.
Thôi thì thôi có tiếc gì ! (979-981)
- Hành vi cảm thán thể hiện sự buông xuôi:
Ví dụ 151:
Cũng liều nhắm mắt đưa chân,
Mà xem con tạo xoay vần đến đâu. (1115-1116)
- Hành vi cảm thán để bộc lộ nỗi đau đớn, xót xa:
Ví dụ 152:
Xót mình, cửa các buồng khuê,
Vỡ lòng học lấy những nghề nghiệp hay !
Khéo là mặt dạn mày dày,
Kiếp này đã đến thế này thì thôi! (1221-1224)
- Hành vi cảm thán bày tỏ thái độ trân trọng những ân tình đã qua:
Ví dụ 153:
Xót vì cầm đã bén dây,
Chẳng trăm năm cũng một ngày duyên ta ! (1963-1964)
- Hành vi cảm thán để tiếc nuối mối tình đầu lỡ dở:
Ví dụ 154:
Tiếc thay! Chút nghĩa cũ càng,
Dẫu lìa ngó ý còn vương tơ lòng. (2241-2242)
- Hành vi cảm thán để mỉa mai, đay nghiến kẻ thù:
Ví dụ 155:
Đàn bà dễ có mấy tay,
Đời xưa mấy mặt, đời này mấy gan ! (2359-2360)
- Hành vi cảm thán bộc lộ cảm xúc mạnh mẽ trong cuộc báo thù:
Ví dụ 156:
Lệnh quân truyền xuống nội đao,
Thề sao thì lại cứ sao gia hình. (2387-2388)
- Hành vi cảm thán thể hiện lòng biết ơn với Từ Hải:
Ví dụ 157:
Chạm xương chép dạ xiết chi,
Dễ đem gan óc đền nghì trời mây! (2425-2426)
- Hành vi cảm thán để ca ngợi tấm lòng bao dung, vị tha của Kim Trọng:
Ví dụ 158:
Thân tàn gạn đục khơi trong,
Là nhờ quân tử khác lòng người ta (3181-3182)
Bằng những hành vi cảm thán rất sinh động từ chính nhân vật, Nguyễn Du đã thành công trong việc miêu tả diễn biến tính cách Thuý Kiều. Sau biết bao thăng trầm của cuộc đời, con người trong trắng, dịu dàng, đoan trang, hiền thục trong nhân vật đã nhường chỗ cho một con người từng trải, biết yêu, biết ghét, biết căm thù.
3.1.1.2. Hành vi cảm thán với vai trò xây dựng hình tượng nhân vật Kim Trọng
• Từ ngữ cảm thán nhân vật thường sử dụng
Ở 65 câu thơ chứa hành vi cảm thán của Kim Trọng, có tới 46 câu sử dụng các từ ngữ cảm thán như: chi, chăng, chẳng, mà, đã, cũng, đâu, lắm ru, xót thay, thương ôi, ai ngờ, càng, sao,... Trong đó, nhân vật thường xuyên sử dụng một số từ như: mà: 7 lần; đã: 5 lần ; cũng: 5 lần; lại : 4 lần, ....để nhấn mạnh điều cần cảm thán.
Ví dụ: Trong lời nhân vật, có lúc từ mà được dùng để nhấn mạnh một ý kiến nhằm mục đích khuyên bảo:
Ví dụ 159:
Thiệt đây mà có ích gì đến ai ? (340) có lúc lại giữ vai trò nối liền hai mệnh đề để nhấn mạnh lời thề:
Ví dụ 160:
Dám xa xôi mặt mà thưa thớt lòng? (542)
• Hành vi cảm thán nhân vật thường sử dụng
Kim Trọng là nhân vật có tính cách nho nhã, hào hoa, là người có tâm hồn lãng mạn và giàu tình cảm. Ở đầu tác phẩm, chàng thường sử dụng những hành vi cảm thán như ca ngợi, hờn trách, thề thốt,... để thể hiện tình yêu say đắm, nồng nàn. Sau khi Thuý Kiều lưu lạc, chàng lại thường xuyên sử dụng những hành vi cảm thán thể hiện nỗi niềm đau đớn, xót xa và tâm trạng nhớ nhung phiền não.
Cùng với việc sử dụng rất nhiều hành vi ngôn ngữ trực tiếp, nhân vật này còn gián tiếp bộc lộ tính cách thông qua 19 câu thơ sử dụng thành ngữ, quán ngữ, điển cố và các câu hỏi, câu kể, câu cầu khiến.
• Các kiểu hành vi cảm thán dựa vào mục đích cảm thán
Trong các hành vi cảm thán của Kim Trọng, tiêu biểu nhất là hai kiểu hành vi: cảm thán để bày tỏ tình yêu và cảm thán để bộc lộ thái độ thương cảm, xót xa.
- Hành vi cảm thán để giãi bày tình cảm:
Ví dụ 161:
Rằng: "Từ ngẫu nhĩ gặp nhau,
Thầm trông trộm nhớ bấy lâu đã chồn ! (323-324)
- Hành vi cảm thán thể hiện thái độ khiêm tốn, nhã nhặn:
Ví dụ 162:
Tiện đây, xin một hai điều,
Đài gương soi đến dấu bèo cho chăng ? (329-330)
- Hành vi cảm thán để khuyên nhủ, thuyết phục:
Ví dụ 163:
Dầu chăng xét tấm tình si,
Thiệt đây mà có ích gì đến ai ? (339-340)
- Hành vi cảm thán để hờn trách người yêu:
Ví dụ 164:
Trách lòng hờ hững với lòng,
Lửa hương chốc để lạnh lùng bấy lâu.
Những là đắp nhớ đổi sầu,
Tuyết sương nhuốm nửa mái đầu hoa râm (380-383)
- Hành vi cảm thán để ca ngợi:
Ví dụ 165:
Khen: "Tài nhả ngọc phun châu,
Nàng Ban ả Tạ cũng đâu thế này. (405-406)
- Hành vi cảm thán thể hiện sự thương cảm:
Ví dụ 166:
và xót xa:
Ví dụ 167:
Thương ôi ! Không hợp mà tan,
Một nhà vinh hiển, riêng oan một nàng ! (2965-2966)
Xót thay! Chiếc lá bơ vơ,
Kiếp trần biết giũ bao giờ cho xong ? (2929-2930)
- Hành vi cảm thán thể hiện sự chung tình:
Ví dụ 168:
Chưa chăn gối, cũng vợ chồng,
Lòng nào mà nỡ dứt lòng cho đang! (3175-3176)
- Hành vi cảm thán thể hiện lòng bao dung, độ lượng:
Ví dụ 169:
Như nàng lấy hiếu làm trinh,
Bụi nào cho đục được mình ấy vay ? (3119-3120) Thông qua những hành vi cảm thán của nhân vật, tác giả đã đưa
Kim Trọng trở thành một hình mẫu lí tưởng trong lòng người đọc bởi sự nhã nhặn, tinh tế, tình yêu sâu sắc, thuỷ chung và tấm lòng bao dung, độ lượng, như lời ngợi ca của Thuý Kiều:
Thân tàn gạn đục khơi trong, Là nhờ quân tử khác lòng người ta.
3.1.1.3. Hành vi cảm thán với vai trò xây dựng hình tượng nhân vật Từ Hải
• Từ ngữ cảm thán nhân vật thường sử dụng
Từ Hải là người anh hùng có cốt cách ngang tàng, phóng khoáng với khí phách hiên ngang của kẻ anh hào. Ngôn ngữ đối thoại cũng như cách thể hiện tình cảm khác thường của chàng đã khiến độc giả say mê, yêu thích.
Khác với tất cả các nhân vật trong tác phẩm, Từ Hải luôn luôn đứng ở thế chủ động, chàng thường xuyên đưa ra các phát ngôn có tính chất khẳng định. Điều đó thể hiện rõ ở cách sử dụng những từ ngữ cảm thán, như: bõ chi, vội gì, huống chi, sao bằng, hẹp gì, mà chi,... và các từ mang ý hỏi, như: sao, sao cho, chăng,... để bày tỏ thái độ, tình cảm. Tuy vậy, nhân vật không dùng lặp lại một từ ngữ cảm
thán nào ở trên mà thường xuyên sử dụng những cụm từ biểu cảm trong thành ngữ, điển cố, điển tích để gián tiếp bộc lộ tính cách của mình.
Ví dụ:Cảm thán để khen ngợi sự nhìn nhận con người tinh tế của Thuý Kiều:
Ví dụ 170:
Khen cho con mắt tinh đời, (2201)
• Hành vi cảm thán nhân vật thường sử dụng
Trong tác phẩm, Từ Hải thường thực hiện một số hành vi cảm thán như cảm thán để bày tỏ tình cảm, cảm thán để khẳng định quan điểm sống và cảm thán để thể hiện sự cảm thông sâu sắc đối với cảnh ngộ của Thuý Kiều. Nhưng xuất hiện nhiều nhất vẫn là các hành vi cảm thán để thể hiện khí phách hiên ngang và bản lĩnh khác người của nhân vật:
Ví dụ 171:
Anh hùng tiếng đã gọi rằng,
Giữa đường dầu thấy bất bằng mà tha ! (2429-2430)
• Các kiểu hành vi cảm thán dựa vào mục đích cảm thán
- Hành vi cảm thán để bày tỏ tình yêu với Thuý Kiều:
Ví dụ 172:
Một đời được mấy anh hùng,
Bõ chi cá chậu chim lồng mà chơi ! (2183-2184)
- Hành vi cảm thán để khen ngợi:
Ví dụ 173:
Từ rằng: "Lời nói hữu tình,
Khiến người lại nhớ câu Bình Nguyên Quân. (2191-2192)
- Hành vi cảm thán để bộc lộ tính cách:
Ví dụ 174:
Áo xiêm buộc trói lấy nhau,
Vào luồn ra cúi công hầu mà chi! (2467-2468)
- Hành vi cảm thán trách với mục đích khuyên:
Ví dụ 175:
Sao chưa thoát khỏi nữ nhi thường tình ? (2220)
- Hành vi cảm thán thể hiện sự cảm thông sâu sắc:
Ví dụ 176:
Sao cho muôn dặm một nhà,
Cho người thấy mặt là ta cam lòng. (2435-2436)
Đối với Từ Hải, Nguyễn Du đã huy động một vốn từ vô cùng phong phú để khắc hoạ chân dung nhân vật thân yêu của mình, sáng tạo ra phương thức nghệ thuật rất riêng để biểu đạt khát vọng chung của thời đại.
3.1.2. Hành vi cảm thán với vai trò xây dựng hình tượng nhân vật phản diện
Trong Truyện Kiều xuất hiện 7 nhân vật phản diện có ngôn ngữ đối thoại. Nhưng do bản chất tiêu cực của chúng khác nhau, nên chúng tôi chia các nhân vật phản diệnnày thành 3 nhóm nhỏ theo tiêu chí sau:
- Mã Giám sinh, Tú Bà và Sở Khanh được xếp vào nhóm phản diện 1 vì đây là ba nhân vật có cùng bản chất gian xảo, tráo trở, lừa lọc, cùng chung một động cơ hành động là "khát tiền".
- Hoạn Thư và Thúc sinh là hai nhân vật có tính cách rất phức tạp, không tích cực cũng không hoàn toàn tiêu cực. Vì sự nhu nhược mà Thúc Sinh gián tiếp gây ra nỗi đau khổ cho Thuý Kiều. Vì sự ghen tuông thái quá mà Hoạn Thư trở thành một tác nhân đẩy Kiều dấn sâu thêm vào kiếp phong trần. Hai nhân vật này được xếp vào nhóm phản diện 2.
- Hoạn bà và Hồ Tôn Hiến không cùng bản chất với hai nhóm nhân vật trên nên chúng tôi tạm xếp họ vào nhóm phản diện 3.
3.1.2.1. Hành vi cảm thán với vai trò xây dựng hình tượng nhóm nhân vật phản diện 1
Mã Giám sinh, Tú Bà và Sở Khanh là ba con người có cùng tâm địa nhưng mỗi người lại có sự thể hiện hết sức khác nhau, không ai giống ai.
Vì Mã Giám sinh và Sở Khanh có sự khác biệt so với Tú Bà về cách thức nói năng, hành động, nên chúng tôi gộp Mã Giám Sinh và Sở Khanh vào một tiểu nhóm để xem xét.
a. Hành vi cảm thán của Mã Giám Sinh và Sở Khanh
• Từ ngữ cảm thán nhân vật sử dụng.
Mã Giám sinh có tính cách nổi bật là sự keo kiệt, bủn xỉn đến mức bỉ ổi. Ngôn từ sử dụng cũng góp phần lột tả sự đê tiện trong con người này. Để tính toán, cân nhắc trước mọi hành động, hắn thường dùng những từ ngữ cảm thán như: mất chi, chẳng ngoa, kém đâu, hẳn, ắt,...
Ví dụ 177 :
Một cười này, hẳn nghìn vàng, chẳng ngoa. (826)
Với Sở Khanh, vì là một tên lưu manh, là kẻ lừa tình tráo trở nên ngôn từ của gã vừa sáo rỗng, vừa gian manh. Khi thực hiện hành vi lừa đảo, gã đã sử dụng những từ ngữ cảm thán như: than ôi, tiếc cho, bỗng, sao, khéo, bấy, hỡi lòng, đà, chăng, mới thôi, chẳng cơn cớ gì,...nhằm đưa "con mồi" vào bẫy:
Ví dụ 178 :
Nổi cơn riêng giận trời già,
Lòng này ai tỏ cho ta hỡi lòng ? (1069-1070)
• Hành vi cảm thán nhân vật thường sử dụng
Để thực hiện những hành vi xấu xa đối với Thuý Kiều, Mã Giám Sinh thường sử dụng những hành vi cảm thán thể hiện sự soi xét giá trị "món hàng", những tính toán lời lãi trong việc buôn người và hành vi cảm thán để tính bài lừa đảo.
Ví dụ 179:
Mập mờ đánh lận con đen,
Bao nhiêu cũng bấy nhiêu tiền mất chi ? (839-840)
Với mục đích đưa Thuý Kiều vào tròng, Sở Khanh chỉ chú trọng thực hiện những hành vi cảm thán khiến đối tượng tin tưởng mà mắc lừa. Đó là hành vi than oán tỏ vẻ xót xa, hay hành vi hứa hẹn để thuyết phục Kiều đi trốn:
Ví dụ 180 :
Nàng đà biết đến ta chăng,
Bể trầm luân lấp cho bằng mới thôi. (1103-1104)
• Các kiểu hành vi cảm thán dựa vào mục đích cảm thán
Dựa vào mục đích cảm thán, Mã Giám Sinh đã đưa ra một số hành vi cảm thán sau:
- Hành vi cảm thán để khen "hàng":
Ví dụ 181:
Đã nên quốc sắc thiên hương, (825)
- Hành vi cảm thán thể hiện sự tính toán lời lãi:
Ví dụ 182:
Hẳn ba trăm lạng kém đâu,
Cũng đà vừa vốn, còn sau thì lời. (829-830)
- Hành vi cảm thán thể hiện khao khát nhục dục:
Ví dụ 183:
Đào tiên đã bén tay phàm,
Thì vin cành quýt cho cam sự đời (833-834)
- Hành vi cảm thán để toan tính lừa đảo:
Ví dụ 184:
Nước vỏ lựu, máu mào gà,
Mượn màu chiêu tập lại là còn nguyên. (837-838)
- Hành vi cảm thán thể hiện sự hèn hạ:
Ví dụ 185:
Mụ già hoặc có điều gì,
Liều công mất một buổi quỳ mà thôi. (841-842)
Là một kẻ lừa tình siêu hạng, Sở Khanh đã thực hiện các hành vi cảm thán để đưa đối tượng vào bẫy:
- Hành vi cảm thán để than tiếc:
Ví dụ 186:
Than ôi! Sắc nước hương trời,
Tiếc cho đâu bỗng lạc loài đến đây ?
- Hành vi cảm thán để oán trách:
Ví dụ 187:
Hoa sao hoa khéo giã giày bấy hoa ? (1068)
- Hành vi cảm thán để hứa hẹn:
Ví dụ 188:
Thuyền quyên ví biết anh hùng,
Ra tay tháo cũi sổ lồng như chơi ! (1071-1072)
- Hành vi cảm thán để thuyết phục:
Ví dụ 189:
Thừa cơ, lẻn bước ra đi,
Ba mươi sáu chước, chước gì là hơn ?
Thông qua những hành vi cảm thán của Mã Giám Sinh và Sở Khanh, tác giả đã vạch trần tâm địa xấu xa của cả hai nhân vật: một kẻ vừa keo kiệt, vừa đê tiện, một kẻ vừa đốn mạt vừa tráo trở.
b. Hành vi cảm thán của Tú Bà
• Từ ngữ cảm thán nhân vật thường sử dụng
Xây dựng hình ảnh một mụ chủ lầu xanh gớm ghiếc, thô lỗ và chỉ biết đến tiền, tác giả đã đặt vào ngôn ngữ đối thoại của Tú bà những từ
ngữ cảm thán: cũng, này này, này, thôi đà, đã, thôi thôi, cứ, chẳng, cớ sao, sao, sao nỡ, làm chi, hay gì, hãy, cho,...trong đó từ đã xuất hiện 7 lần, cũng 4 lần và cho 3 lần.
Lặp lại nhiều lần từ đã để cảm thán về những sự việc xảy ra ngoài ý muốn, lúc thì Tú Bà bộc lộ sự tiếc nuối:
Ví dụ 190:
Màu hồ đã mất đi rồi, (969) lúc lại dùng đã để khẳng định :
Ví dụ 191:
Con kia đã bán cho ta,
Nhập gia, phải cứ phép nhà tao đây. (971-972)
..........
• Hành vi cảm thán nhân vật thường sử dụng
Tú bà thường sử dụng hành vi cảm thán trực tiếp thông qua 23/26 phát ngôn cảm thán có các từ cảm thán đi kèm. Bên cạnh đó, mụ cũng phối hợp sử dụng 11 thành ngữ nhằm nhấn mạnh nội dung của phát ngôn.
Với một kẻ chỉ biết đến tiền và ghê gớm như Tú Bà thì hầu hết các hành vi cảm thán của mụ đều là hành vi chửi mắng, hành vi than vì tiếc tiền hoặc hành vi khuyên nhủ, thuyết phục chỉ vì lợi nhuận.
• Các kiểu hành vi cảm thán dựa vào mục đích cảm thán
Khắc hoạ tính cách ghê gớm, xảo quyệt của Tú Bà, nhà thơ đã để nhân vật này thực hiện một số hành vi cảm thán tiêu biểu sau:
- Hành vi cảm thán vì mục đích cầu xin:
Ví dụ 192:
Muôn nghìn người thấy cũng yêu,
Xôn xao anh yến, dập dìu trúc mai (943-944)
- Hành vi cảm thán để chửi rủa:
Ví dụ 193:
Tuồng vô nghĩa, ở bất nhân,
Buồn mình trước đã tần mần thử chơi. (967-968)
- Hành vi cảm thán để than vì tiếc tiền:
Ví dụ 194:
Thôi thôi, vốn liếng đi đời nhà ma ! (970)
- Hành vi cảm thán thể hiện uy quyền:
Ví dụ 195:
Phải làm cho biết phép tao ! (977)
- Hành vi cảm thán để khuyên nhủ:
Ví dụ 196:
Làm chi tội báo oan gia, Thiệt mình, mà hại đến ta, hay gì?
- Hành vi cảm thán để hứa hẹn, thề thốt:
Ví dụ 197:
Mai sau ở chẳng như lời,
Trên đầu có bóng mặt trời rạng soi. (1029-1030)
- Hành vi cảm thán để ra lệnh:
Ví dụ 198:
Chơi cho liễu chán hoa chê,
Cho lăn lóc đá, cho mê mẩn đời. (1211-1212)
- Hành vi cảm thán để mỉa mai, đay nghiến:
Ví dụ 199:
Cớ sao, chịu tốt một bề,
Gái tơ mà đã ngứa nghề sớm sao ! (975-976)
Ngôn từ lỗ mãng mà Tú bà sử dụng khi chửi rủa, mắng nhiếc đối tượng mang tính chất cá thể hoá cao độ, có tác dụng tô đậm bản chất con buôn của
mụ: "gái tơ" là cách gọi xách mé những cô gái trẻ thiếu đứng đắn, "ngứa nghề" là từ thô tục,... Đoạn Tú bà chửi mắng Thuý Kiều chính là một dẫn chứng xuất sắc về việc cá thể hoá bằng ngôn ngữ nhân vật. Bản thân ngôn ngữ ấy đã tố cáo tính chất con người Tú Bà rất cụ thể và sinh động.
3.1.2.2. Hành vi cảm thán với vai trò xây dựng hình tượng nhóm nhân vật phản diện 2
a. Hành vi cảm thán của Thúc sinh
• Từ ngữ cảm thán nhân vật sử dụng.
Để bộc lộ thái độ, tình cảm của bản thân trước mọi hoàn cảnh, Thúc Sinh đã sử dụng các từ ngữ cảm thán: thay, sao, chớ, hãy cứ, chi, đã, cũng, nỡ, chẳng, thôi, vì ai, lại, hỡi ơi, thương ôi, thôi thôi, biết bao giờ,...
Có một số từ ngữ được nhân vật này ưa dùng, đó là các từ: sao: xuất hiện 5 lần, chi: 4 lần, thôi: 4 lần, cũng: 4 lần...
Với 5 lần xuất hiện trong các phát ngôn cảm thán, sao có tác dụng biểu thị một số cảm xúc, thái độ của nhân vật, như:
Thái độ ngạc nhiên:
Ví dụ 200:
Rằng: "Sao nói lạ lùng thay ! (1321) Thái độ nhún nhường, biết lỗi:
Ví dụ 201:
Dại rồi còn biết khôn làm sao đây! (1398) Cũng có khi sao được dùng để nhấn mạnh lời than vãn của nhân vật:
Ví dụ 202:
Nhân làm sao đến thế này ? (1825)
• Hành vi cảm thán nhân vật thường sử dụng
Thúc Sinh đa tình, phóng túng, thích hưởng lạc, lại là người có tính cách bốc đồng, khoác lác. Cách sống thiếu lành mạnh đã góp phần tạo nên tính cách bạc nhược, yếu hèn của anh ta.
Trong 47 phát ngôn cảm thán, nhân vật này thường xuyên thực hiện ba loại hành vi cảm thán là: hành vi cảm thán thể hiện sự ba hoa, khoác lác, hành vi than khóc thể hiện thái độ xót thương và hành vi cảm thán thể hiện thái độ sợ sệt, yếu hèn.
• Các kiểu hành vi cảm thán dựa vào mục đích cảm thán
- Hành vi cảm thán với mục đích thể hiện mình:
Ví dụ 203:
Đường xa chớ ngại Ngô Lào,
Trăm điều, hãy cứ trông vào một ta. (1363-1364)
- Hành vi cảm thán thể hiện sự ăn năn, hối lỗi:
Ví dụ 204:
Rằng: "Con biết tội đã nhiều,
Dẫu rằng sấm sét búa rìu cũng cam. (1395-1396)
- Hành vi than thể hiện sự buông xuôi:
Ví dụ 205:
Lượng trên quyết chẳng thương tình,
Bạc đen, thôi có tiếc mình làm chi ! (1401-1402)
- Hành vi cảm thán thể hiện sự ân hận, tự xỉ vả bản thân:
Ví dụ 206:
Khóc rằng: "Oan khuất vì ta,
Có nghe lời trước, chẳng đà luỵ sau ! Cạn lòng chẳng biết nghĩ sâu,
Để ai trăng tủi hoa sầu vì ai ? (1433-1436)
- Hành vi cảm thán bộc lộ thái độ xót xa:
Ví dụ 207:
Con người thế ấy, thác oan thế này ! (1678)
- Hành vi than thể hiện sự sợ hãi:
Ví dụ 208:
Nhân làm sao đến thế này ?
Thôi thôi, ta đã mắc tay ai rồi !
- Hành vi cảm thán thể hiện thái độ thông cảm:
Ví dụ 209:
Hồng nhan bạc mệnh một người nào vay ! (1906)
- Hành vi cảm thán thể hiện sự tủi hổ, cay đắng:
Ví dụ 210:
Thấp cơ thua chí đàn bà,
Trông vào đau ruột, nói ra ngại lời. (1947-1948)
- Hành vi cảm thán để khuyên nhủ:
Ví dụ 211:
Liệu mà xa chạy cao bay,
Ái ân ta có ngần này mà thôi ! (1971-1972)
- Hành vi cảm thán thể hiện tình cảm vấn vương:
Ví dụ 212:
Dẫu rằng sông cạn đá mòn,
Con tằm đến thác vẫn còn vương tơ. (1975-1976)
- Hành vi cảm thán để ngợi ca:
Ví dụ 213:
Lạ gì quốc sắc thiên tài phải duyên. (2922)
Qua các kiểu hành vi cảm thán nêu trên, có thể thấy: ở Thúc Sinh có sự mâu thuẫn giữa động cơ của hành động với kết quả của hành động: Vì yêu Kiều mà cứu Kiều ra khỏi lầu xanh nhưng do bản tính nhu ngược, yếu
hèn nên lại không thể trở thành chỗ dựa cho Kiều. Trước sự phẫn nộ của cha, trong cảnh Thuý Kiều bị hành hạ nơi công đường và bị Hoạn Thư trả thù, Thúc Sinh thường chỉ biết khóc than hay thương xót, sợ hãi mà chẳng làm được gì để bảo vệ cho người yêu.
b. Hành vi cảm thán của Hoạn Thư
• Từ ngữ cảm thán nhân vật sử dụng
Hoạn Thư là nhân vật có tính cách phức tạp và bản lĩnh khác thường. Điều đó thể hiện ở những hành vi cảm thán của nhân vật có chứa các từ ngữ cảm thán, như: chi, chẳng, mà, lại còn, làm chi, cũng, lo gì, cho, nào phải, chăng, lạ đời, thôi thì thôi, tiếc thay... Một số từ ngữ cảm thán được Hoạn Thư sử dụng nhiều lần, như: cho: 10 lần; chẳng: 5 lần; chi(gì): 6 lần; cũng: 4 lần,... có tác dụng khắc họa đậm nét bản chất thâm hiểm trong con người này.
Khi dùng lặp đi lặp lại từ cho trong những toan tính trả thù, Hoạn Thư khiến người đọc phải rùng mình vì sự thâm trầm độc địa của thị:
Ví dụ 214:
Làm cho cho mệt cho mê, Làm cho đau đớn ê chề cho coi. Trước cho bõ ghét những người, Sau cho để một trò cười về sau.
• Hành vi cảm thán nhân vật thường sử dụng
Hoạn Thư thường sử dụng hành vi cảm thán trực tiếp để bộc lộ các trạng thái tâm lí của mình.
Bên cạnh việc sử dụng rất nhiều hành vi cảm thán để thể hiện sự oán trách, căm giận và những mưu đồ trả thù, Hoạn Thư còn sử dụng khá nhiều hành vi cảm thán để thể hiện thái độ cảm thông với Thuý Kiều. Điều đó tạo ra
mâu thuẫn trong nội tâm của nhân vật, cũng cho thấy sự phức tạp trong tính cách của người đàn bà này.
• Các kiểu hành vi cảm thán dựa vào mục đích cảm thán
- Hành vi cảm thán thể hiện sự chê trách:
Ví dụ 215:
Lại còn bưng bít dấu quanh,
Làm chi những thói trẻ ranh nực cười ! (1543-1544)
- Hành vi cảm thán thể hiện sự ghê gớm:
Ví dụ 216:
Làm cho nhìn chẳng được nhau, Làm cho đày đoạ cất đầu chẳng lên.
Làm cho trông thấy nhãn tiền,
Cho người thăm ván bán thuyền biết tay ! (1549-1552)
- Hành vi cảm thán để mắng chửi:
Ví dụ 217:
Cuộc vui gảy khúc đoạn trường ấy chi !
Sao chẳng biết ý tứ gì ? (1860-1861)
- Hành vi cảm thán thể hiện tâm lí thoả mãn:
Ví dụ 218:
Vui này đã bõ đau ngầm xưa nay ! (1868)
- Hành vi cảm thán để khen ngợi:
Ví dụ 219:
Khen rằng: "Bút pháp đã tinh,
So vào với thiếp Lan Đình nào thua ! (1987-1988)
- Hành vi cảm thán thể hiện thái độ cảm thông:
Ví dụ 220:
Rằng: "Tài nên trọng mà tình nên thương. (1900)
...Hữu tài thương nỗi vô duyên lạ đời ! (1904)
- Hành vi cảm thán thể hiện thái độ tiếc nuối:
Ví dụ 221:
Tiếc thay ! Lưu lạc giang hồ,
Nghìn vàng thật cũng nên mua lấy tài. (1989-1990)
- Hành vi cảm thán để cầu xin tha mạng:
Ví dụ 222:
Lòng riêng, riêng những kính yêu, Chồng chung, chưa dễ ai chiều cho ai.
Trót lòng gây việc chông gai,
Còn nhờ lượng bể thương bài nào chăng (2369-2372)
Qua bút pháp miêu tả của nhà thơ, có thể thấy Hoạn Thư là người đàn bà vừa quỷ quyệt, tinh quái, vừa khôn ngoan, biết điều. Trong mọi hoàn cảnh, thị luôn chứng tỏ mình là người có bản lĩnh khác người. Nhờ việc sử dụng các kiểu hành vi cảm thán để nhân vật tự bộc lộ, tác giả đã làm cho hình tượng nhân vật trở nên sống động hơn, tính cách nhân vật cũng đa dạng và có chiều sâu hơn.
3.1.2.3. Hành vi cảm thán với vai trò xây dựng hình tượng nhóm nhân vật phản diện 3
a. Hành vi cảm thán của Hoạn Bà
• Từ ngữ cảm thán nhân vật sử dụng.
Là phu nhân của quan Lại bộ, đứng ở vị trí "kẻ trên", Hoạn bà thích ra oai và chửi mắng người dưới. Trong các phát ngôn cảm thán, bà ta đã sử dụng các từ ngữ cảm thán: chẳng, thì, ra tuồng, đã, lại, nào, hãy và các cụm từ biểu cảm của thành ngữ để chửi rủa, lăng nhục Thuý Kiều.
• Các hành vi cảm thán nhân vật sử dụng
Khác với những động cơ xấu xa của nhóm nhân vật Mã Giám sinh, Tú bà, Sở Khanh và sự ghen tuông thái quá của Hoạn Thư, động cơ hành động của Hoạn Bà chỉ đơn giản là trả thù cho con, nên trong tác phẩm, Hoạn Bà chỉ sử dụng hành vi cảm thán với mục đích chửi mắng, nhiếc móc và hành vi ra lệnh đánh đập Thuý Kiều.
• Các kiểu hành vi cảm thán dựa vào mục đích cảm thán
Với mục đích trả thù cho con gái, Hoạn bà đã thực hiện các hành vi cảm thán sau:
- Hành vi cảm thán để chửi rủa:
Ví dụ 223:
Chẳng phường trốn chúa thì quân lộn chồng,
Ra tuồng mèo mả gà đồng. (1730-1731)
- Hành vi cảm thán thể hiện sự tức giận:
Ví dụ 224:
Đã đem mình bán cửa tao,
Lại còn khủng khỉnh làm cao thế này! (1732-1733)
- Hành vi cảm thán để ra lệnh:
Ví dụ 225:
Nào là gia pháp nọ bay !
Hãy cho ba chục biết tay một lần. (1735-1736)
Thông qua những hành vi cảm thán, Hoạn Bà đã tự bộc lộ bản chất ghê gớm, đáo để của một mệnh phụ phu nhân đầy uy quyền.
b. Hành vi cảm thán của Hồ Tôn Hiến
• Từ ngữ cảm thán nhân vật sử dụng.
Trong 4 câu thơ chứa hành vi cảm thán của Hồ Tôn Hiến, nhân vật đã sử dụng các từ ngữ cũng, mới, lắm thay, hay sao, thế nào để thể hiện các trạng thái tâm lí.
• Các hành vi cảm thán nhân vật sử dụng
Là tên quan "mặt sắt đen sì" nên Hồ Tôn Hiến ít biểu lộ tình cảm. Tuy vậy, nhan sắc và tiếng đàn sầu thảm của người đẹp đã khiến hắn phải thốt lên vài lời cảm thán, đó là hành vi than và hành vi cảm thán thể hiện sự thương hại, sự lo lắng.
• Các kiểu hành vi cảm thán dựa vào mục đích cảm thán
- Hành vi than khi nghe tiếng đàn sầu thảm của Thuý Kiều:
Ví dụ 226:
Nghe ra muôn oán nghìn sầu lắm thay ! (2574)
- Hành vi cảm thán thể hiện sự thương hại:
Ví dụ 227:
Rằng: "Nàng chút phận hồng nhan,
Gặp cơn binh cách nhiều nàn cũng thương. (2541-2542)
- Hành vi cảm thán để bộc lộ sự lo lắng:
Ví dụ 228:
Phải tuồng trăng gió hay sao,
Sự này biết tính thế nào được đây ? (2593-2594)
Hồ Tôn Hiến là nhân vật phản diện cuối cùng của tác phẩm. Hắn không chỉ hám danh lợi mà còn khát khao lạc thú. Đằng sau sự miêu tả long trọng về Hồ Tôn Híến là thái độ chê cười kín đáo của Nguyễn Du giành cho sự dâm đãng của ông ta:
Ví dụ 229:
Lạ cho mặt sắt cũng ngây vì tình !
Sử dụng từ ngữ biểu cảm trong những câu thơ trào phúng đã giúp Nguyễn Du thể hiện thành công dụng ý nghệ thuật của mình là lật tẩy được bộ mặt giả tạo, tàn nhẫn của tầng lớp quan lại phong kiến xấu xa.
3.1.3. Nhận xét chung
Trong Truyện Kiều, thế giới nội tâm của từng kiểu nhân vật được Nguyễn Du miêu tả hoàn toàn khác nhau, mỗi người mang một tính cách riêng, không gây cảm giác nhàm chán cho độc giả. Để có được thành công này phải kể đến nghệ thuật sử dụng ngôn từ vô cùng độc đáo của nhà thơ.
Có thể thấy, trong tác phẩm, mỗi loại nhân vật đều có cách sử dụng từ ngữ cảm thán khác nhau. Nếu như nhân vật Thúy Kiều thường sử dụng các từ ngữ cảm thán như: thôi thôi, thôi đã, cũng, này, đã, chẳng, làm chi, hay gì ,... để bộc lộ những đau buồn, chua xót, đắng cay, tiếc nuối cho những mất mát về tinh thần, thì Tú bà lại sử dụng thôi thôi, thôi đà, cũng, này, mà, đã, sao, chẳng,làm chi, hay gì,... để kêu than, chửi bới, nguyền rủa, tiếc nuối cho những mất mát về vật chất.
Nếu Thúy Kiều sử dụng các từ ngữ thôi thôi, ôi, hỡi ,... để bộc lộ nỗi niềm chua xót, đắng cay thì Thúc Sinh lại dùng các từ ngữ: hỡi ơi, thương ôi, thôi thôi,... để bộc lộ sự sợ hãi, yếu hèn và để khóc than thương xót.
Nếu Kim Trọng sử dụng các từ ngữ chi, chăng, chẳng, mà, đã, cũng, đâu, lắm ru, xót thay, thương ôi, ai ngờ, càng, sao,... để ca ngợi, hờn trách, thề thốt, đắm say thuở ban đầu và đau đớn, thương cảm, xót xa trong sự nhớ nhung phiền não, thì Thúy Kiều lại sử dụng các từ ngữ chi, chăng, chẳng, mà, đã, cũng, đâu, lắm ru, xót thay, ai ngờ, càng, sao,... để giãi bày nỗi nhớ người yêu, nỗi thương cha, xót mẹ, để sầu tủi, ngậm ngùi cho bản thân.
Từ Hải sử dụng bõ chi, sá gì để bày tỏ tình cảm và thể hiện khí phách hiên ngang của kẻ "đầu đội trời, chân đạp đất", còn Thúy Kiều sử dụng sá gì, sá chi để bộc lộ thái độ buông xuôi, chán ngán.
Hoạn Thư và Tú bà đều là hai người đàn bà ghê gớm, nhưng những từ ngữ cảm thán chi, chẳng, mà, lại còn, làm chi, cũng, lo gì, cho, nào phải, chăng, lạ đời, thôi thì thôi, tiếc thay... mà Hoạn Thư sử dụng cho người ta
thấy cả sự tinh quái, quỉ quyệt lẫn "cái biết điều" của thị, còn những từ ngữ cũng, này này, này, thôi đà, đã, thôi thôi, cứ, chẳng, cớ sao, sao, sao nỡ, làm chi, hay gì, hãy, cho,... mà Tú bà sử dụng để cảm thán thì chỉ cho người ta thấy sự gớm ghiếc, thô lỗ và chỉ biết đến tiền của mụ chủ lầu xanh. Điều đó làm nên sự khác biệt về bản chất của hai nhân vật.
Một Mã Giám sinh vô học, hợm của, đê tiện hiện ra qua các từ cảm thán chẳng ngoa, kém đâu, mất chi, hẳn, ắt.... bên cạnh gã Sở Khanh gian manh, lọc lừa, tráo trở bị vạch mặt bởi các từ: than ôi, tiếc cho, hỡi lòng, đà, chăng, mới thôi, chẳng cơn cớ gì, bỗng, sao, khéo, bấy...cũng tạo nên những nét khác biệt giữa chúng.
Hoạn bà ghê gớm, đáo để, luôn đứng ở vị trí "kẻ trên" để xăm soi, nhiếc móc, ra oai "kẻ dưới" thì Nguyễn Du chọn dùng những từ ngữ chẳng, thì, ra tuồng, đã, lại còn, thế này, nào, hãy. Còn Hồ Tôn Hiến vừa hám danh lợi, vừa khát khao lạc thú thì bị Nguyễn Du vạch mặt bằng các từ ngữ cảm thán: lắm thay, cũng, hay sao, lạ cho...
Mỗi con người một tính cách, đại diện cho những hạng người khác nhau trong xã hội. Nhờ sự góp mặt của các từ ngữ cảm thán mà Nguyễn Du đã vẽ nên bức tranh đa sắc màu của xã hội - nơi Thúy Kiều sống, giúp người đọc có thể liên tưởng chân thực nhất hoản cảnh xã hội qua những con người cụ thể trong tác phẩm.
3.2. HÀNH VI CẢM THÁN VỚI VAI TRÒ THỂ HIỆN THÁI ĐỘ CỦA TÁC GIẢ 3.2.1.Hành vi cảm thán thể hiện thái độ của tác giả đối với thân phận Thúy Kiều 3.2.1.1.Từ ngữ cảm thán tác giả thường sử dụng để nói về nhân vật Thuý Kiều
a. Khi miêu tả vẻ đẹp ngoại hình và tài năng thơ ca, nhạc họa của nhân vật Nhà thơ không sử dụng nhiều từ ngữ cảm thán khi miêu tả dung mạo xinh
đẹp của Thuý Kiều, mà thường gián tiếp thông qua các thành ngữ, điển cố để ca ngợi vẻ đẹp cũng như tài năng thơ phú của nàng. Ví dụ, chỉ nhan sắc của người
đẹp thì nói mai cốt cách, tuyết tinh thần, miêu tả đôi mắt tình tứ thì nói làn thu thuỷ, khen lời hay ý đẹp thì nói nhả ngọc phun châu,...
Nguyễn Du lựa chọn những cụm từ bóng bẩy để miêu tả tài sắc của nhân vật chính trong tác phẩm là vì chỉ có bút pháp ước lệ cổ điển trong thành ngữ, điển cố mới làm nổi bật được hình ảnh lí tưởng của Thuý Kiều:
Ví dụ 230:
Một hai nghiêng nước nghiêng thành
...Đã nên quốc sắc thiên hương,
Một cười này, hẳn nghìn vàng, chẳng ngoa.
...Than ôi! Sắc nước hương trời
Sự nổi trội của Thuý Kiều không chỉ thể hiện ở vẻ bề ngoài mà còn ở sự "thông minh vốn sẵn" được đánh dấu bởi tài năng thơ ca, nhạc họa "sắc đành đòi một, tài đành hoạ hai" của nhân vật. Tác giả đã dùng những thành ngữ gió táp mưa sa, trong như tiếng hạc, tiếng nhặt tiếng khoan,... để miêu tả Thuý Kiều làm thơ và đánh đàn.
b. Khi nói về thân phận khổ đau của nhân vật
Cuộc đời Vương Thuý Kiều là một chuỗi dài những ngày tháng đắng cay, tủi nhục khiến Nguyễn Du đem lòng trắc ẩn. Thể hiện thái độ đồng cảm, xót thương cho thân phận khổ đau của nàng, tác giả đã sử dụng hàng loạt từ ngữ cảm thán để sáng tạo ra những dòng thơ chứa đầy cảm xúc. Đó là các từ ngữ: thôi, thay, thương ôi, xiết bao, thương gì, tiếc gì, quản gì, còn gì, dẫu sao, biết bao, biết sao, càng, đâu, chăng, chẳng, ...
Khi sử dụng những từ ngữ cảm thán đó, tác giả đã cực tả được hầu hết các trạng thái tâm lí, những xúc cảm cũng như thái độ của mình trước cuộc đời đầy khổ ải của nhân vật.
Ví dụ: cảm từ thay xuất hiện qua nhiều dạng kết hợp như xót thay, tiếc thay, đoạn trường thay, thương thay, khéo thay đã biểu đạt được những cảm xúc sau:
- Biểu thị sự xót xa cho một kiếp người bất hạnh:
Ví dụ 231:
Xót thay, chiếc lá bơ vơ,
Kiếp trần biết rũ bao giờ cho xong !
- Biểu thị sự tiếc nuối trong tiếng than nghẹn ngào, đau đớn:
Ví dụ 232:
Tiếc thay! Một đoá trà mi, Con ong đã mở đường đi lối về !
- Biểu thị sự thương cảm trong lời than thống thiết:
Ví dụ 233:
Thương thay ! Cũng một kiếp người,
Khéo thay ! Mang lấy sắc tài làm chi !
- Biểu thị sự mãn nguyện khi thấy cái ác, cái xấu bị tiêu diệt:
Ví dụ 234:
Đạo trời báo phục chỉn ghê, Khéo thay, một mẻ tóm về đầy nơi !
Mỗi lần những ngôn từ cảm thán tiếc thay, thương thay, xót thay, đoạn trường thay,.... vang lên là thêm một lần nhà thơ nhấn sâu vào lòng độc giả sự day dứt, xót xa, tiếc nuối cho một cuộc đời bất hạnh.
3.2.1.2. Các loại hành vi cảm thán tác giả thường sử dụng
Nguyễn Du thường trực tiếp bày tỏ thái độ của mình trước cuộc đời khổ đau của nhân vật qua những hành vi cảm thán tiêu biểu sau:
- Hành vi cảm thán để than:
Ví dụ 235:
Đoạn trường thay ! Lúc phân kỳ (869)
- Hành vi cảm thán bộc lộ sự oán trách:
Ví dụ 236:
Rủi may âu cũng sự trời,
Đoạn trường lại chọn mặt người vô duyên ! Xót nàng, chút phận thuyền quyên,
Cành hoa đem bán vào thuyền lái buôn ! (817-820)
- Hành vi cảm thán bộc lộ sự xót xa:
Ví dụ 237:
Xót thay ! Đào lí một cành,
Một phen mưa gió, tan tành một phen. (1741-1742)
- Hành vi cảm thán thể hiện sự thương cảm cao độ:
Ví dụ 238:
Thương ôi ! Tài sắc bực này,
Một dao oan nghiệt, đứt dây phong trần. (985-986)
- Hành vi cảm thán thể hiện thái độ đồng cảm với nỗi đau của nhân vật:
Ví dụ 239:
Đau lòng tử biệt sinh ly,
Thân còn chẳng tiếc, tiếc gì đến duyên ! (617-618)
- Hành vi cảm thán thể hiện sự ngậm ngùi than tiếc:
Ví dụ 240:
Nghĩ đời mà ngán cho đời,
Tài tình chi lắm cho trời đất ghen !
Tiếc thay ! Nước đã đánh phèn,
Mà cho bùn lại vẩn lên mấy lần ! (2153-2156)
- Hành vi cảm thán bộc lộ thái độ trân trọng, ngợi ca nhân vật:
Ví dụ 241:
Cho hay thục nữ chí cao,
Phải người sớm mận tối đào như ai ?
- Hành vi cảm thán thể hiện thái độ bao dung, độ lượng:
Ví dụ 242:
Như nàng lấy hiếu làm trinh,
Bụi nào cho đục được mình ấy vay !
Dựa vào vai trò biểu cảm của từ ngữ với sự sáng tạo tuyệt vời của bản thân, nhà thơ không chỉ bày tỏ tình cảm đặc biệt với Thuý Kiều, mà còn bộc lộ cả thái độ bất bình đối với sự bất công của xã hội. Những vần thơ đanh thép của ông thể hiện sự phản kháng mạnh mẽ đối với các thế lực đen tối tồn tại trong xã hội phong kiến.
3.2.2. Hành vi cảm thán để thể hiện thái độ của tác giả đối với sự bất công của xã hội.
3.2.2.1. Từ ngữ cảm thán tác giả thường sử dụng
Vì có mối đồng cảm sâu sắc với nỗi thống khổ của con người mà Nguyễn Du luôn tỏ thái độ bất bình với những biểu hiện xấu xa của xã hội cũ. Nhà thơ đã sử dụng những lời lẽ đanh thép để vạch trần bộ mặt đen tối của xã hội phong kiến một cách không thương tiếc:
Ví dụ 243:
Một ngày lạ thói sai nha,
Làm cho khốc hại chẳng qua vì tiền !
Ông đã thông qua các từ ngữ cảm thán khéo là, lạ gì, điều đâu, bỗng, làm sao, sao khéo, khó gì, cho, nỡ, làm chi, lắm nao, mà, chẳng qua,...để bộc lộ thái độ phản ứng mạnh mẽ của mình đối với xã hội mà đồng tiền đứng trên, đứng trước và lãnh đạo tất cả:
Ví dụ 244:
Trong tay đã sẵn đồng tiền,
Dầu lòng đổi trắng thay đen khó gì !
Đồng thời nhà thơ cũng cho độc giả thấy được tác dụng của những từ ngữ cảm thán đó khi chúng được lựa chọn sử dụng trong các hoàn cảnh cụ thể của tác phẩm.
Ví dụ: từ cho được dùng lặp lại liên tiếp 6 lần có tác dụng nhấn mạnh lời bình luận, khiến người ta càng thêm ghê sợ sự cay nghiệt của tạo hoá:
Ví dụ 245:
Đã cho lấy chữ hồng nhan, Làm cho cho hại, cho tàn, cho cân.
Đã đầy vào kiếp phong trần, Sao cho sỉ nhục một lần mới thôi.
Từ ngữ cảm thán còn giúp tác giả mỉa mai sự bất công đã và đang tồn tại từ bao đời nay:
Ví dụ 246:
Lạ gì bỉ sắc tư phong,
Trời xanh quen thói má hồng đánh ghen.
Sự chà đạp những con người lương thiện là một tội ác của chế độ phong kiến. Khi nào xã hội còn bất công thì khi đó tài năng, nhan sắc chỉ làm người ta sớm gặp tai ương, bởi vì"Trời xanh quen thói má hồng đánh ghen". Đó là cảm hứng chủ đạo nhất, sâu xa nhất, bi thiết nhất của Nguyễn Du trong Truyện Kiều. 3.2.2.2.Các loại hành vi cảm thán tác giả thường sử dụng
Đứng ở vị trí người kể chuyện để chứng kiến những thăng trầm trong cuộc đời nhân vật, nhà thơ đã thực hiện những hành vi cảm thán để bộc lộ thái độ căm giận tạo hoá bằng những lời chì chiết, đay nghiến, mỉa mai số phận. Đó là những hành vi nổi bật như:
- Hành vi cảm thán để lên án những tiêu cực của xã hội:
Ví dụ 247:
....Tiền lưng đã có việc gì chẳng xong !
- Hành vi cảm thán để biểu thị tiếng than đầy thương xót:
Ví dụ 248:
Hoá nhi thật có nỡ lòng,
Làm chi giày tía vò hồng lắm nao !
- Hành vi cảm thán là tiếng chửi đời mỉa mai, chua chát:
Ví dụ 249:
Chém cha cái số hoa đào,
Gỡ ra rồi lại buộc vào như chơi ! (2151-2152)
- Hành vi cảm thán để đay nghiến tạo hoá:
Ví dụ 250:
Hồng quân với khách hồng quần,
Đã xoay đến thế còn vần chưa tha !
(2157-2158)
...Đầu xanh đã tội tình gì ?
Má hồng đến quá nửa thì chưa thôi.
(2161-2162)
- Hành vi cảm thán để khuyên răn hậu thế:
Ví dụ 251:
Có tài mà cậy chi tài
Chữ tài liền với chữ tai một vần.
Trước sự chà đạp thô bạo của chế độ phong kiến lên thân phận con người, Nguyễn Du đã viết lên những vần thơ đau xót. Đó là tiếng khóc nhân văn, nhân đạo của nhà thơ đối với tất cả những số phận bi thương bị đọa đày trong xã hội. Nỗi "đau đớn lòng" của nhà thơ trước "những điều trông thấy" trong "cuộc bể dâu" đã làm nên cái nòng cốt tinh thần trong toàn Truyện Kiều.
Đăng ký:
Đăng Nhận xét (Atom)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét