Thứ Bảy, 15 tháng 3, 2014
TS.Đỗ Hữu Vinh: Bộ Luật Sarbanes – Oxley ( KY 1)
TS.Đỗ Hữu Vinh: Bộ Luật Sarbanes – Oxley
Kinh tế
Kinh tế - Tài chính -Tầm Nhìn
Thứ năm, 27/2/2014 11:19 GMT+7Bản in ấn Email Cỡ chữÝ kiến bình luận (0)
Viết về các báo cáo tài chính then chốt từ một quan điểm bên ngoài. Và tóm tắt một số nội dung của Bộ luật Sarbanes-Oxley.
Nắm rõ sức khỏe tài chính công ty của bạn là một nhiệm vụ quan trọng. Nó có thể giúp bạn phân bổ lại các nguồn lực của mình và xác định được các lĩnh vực cần phát triển và các vấn đề cần khắc phục. Bạn có biết về phương diện tài chính công ty của mình thực hiện như thế nào không? Nó đang tăng trưởng hay đang co lại? Hay nó sẽ vẫn tiếp tục loanh quanh mãi như thế? Bộ phận của bạn tạo lợi nhuận ra làm sao, và bạn có thể làm gì để cải thiện bức tranh lợi nhuận? Các câu hỏi này và nhiều câu hỏi khác nữa có thể được trả lời nếu bạn hiểu về báo cáo tài chính doanh nghiệp. Mặt khác, nếu bạn không hiểu về hoạt động tài chính công ty của mình, bạn sẽ không thể đảm bảo được sự lãnh đạo cần thiết về mặt tài chính.
Có rất nhiều các vụ scandal xảy ra ở các doanh nghiệp lớn trong thế kỷ mới này: Ví dụ như Enron, Tyco International, Global Crossing, và WorldCom (hiện nay là MCI). Mặc dù đây là các trường hợp điển hình nhất, còn có rất nhiều các công ty khác có cổ đông và nhân viên là những người đang phải hứng chịu hậu quả khi giá cổ phiếu thụt giảm, ví dụ như Cisco, Nokia, Lucent Technologies và đa phần các doanh nghiệp liên quan tới Internet. Một loạt các scandal đình đám trong ngành kế toán doanh nghiệp theo vết xe của Encron đã dẫn tới những hướng dẫn, đề xuất, quy định kế toán mới, có tầm áp dụng rộng khắp, đáng chú ý là Bộ luật Sarbanes-Oxley (SOX).
Chương này sẽ xem xét các báo cáo tài chính then chốt từ một quan điểm bên ngoài. Chương cũng tóm tắt một số nội dung của Bộ luật Sarbanes-Oxley (SOX).
5.1 BÁO CÁO TÀI CHÍNH LÀ GÌ VÀ TẠI SAO LẠI SỬ DỤNG NÓ
Báo cáo Tài chính là gì? Tầm quan trọng của nó?
Các quyết định tài chính chủ yếu được dựa trên các thông tin tạo lập từ hệ thống kế toán. Các nhà quản lý tài chính, cổ đông, nhà đầu tư tiềm năng và chủ nợ đều quan tâm về hiệu quả hoạt động hiện tại của công ty. Có ba loại báo cáo được lập từ hệ thống kế toán và nằm trong báo cáo thường niên của công ty, đó là bảng cân đối kế toán, báo cáo kết quả kinh doanh, và báo cáo lưu chuyển dòng tiền. Mặc dù mẫu của các báo cáo tài chính này có thể khác nhau giữa các doanh nghiệp hoặc đơn vị kinh tế khác, mục đích cơ bản của chúng đều không đổi.
Bảng cân đối kế toán thể hiện tình hình tài chính của tổ chức tại một thời điểm cụ thể nào đó. Nó thể hiện tổ chức có gì (tài sản), nợ người bán và người cho vay bao nhiêu (nợ phải trả), và còn lại gì (tài sản trừ nợ, là nguồn vốn hay còn gọi là giá trị ròng) Bảng cân đối kế toán là bức ảnh tức thời về tình hình tài chính của công ty tại một ngày nào đó. Phương trình bảng cân đối kế toán có thể được ghi như sau:
Tài sản - Nợ = Nguồn vốn của Cổ đông
Mặt khác, báo cáo kết quả kinh doanh đo lường hiệu quả hoạt động kinh doanh trong một khoảng thời gian cụ thể (là năm ví dụ kết thúc vào ngày 31/12/2X11) Nếu bảng cân đối kế toán là bức ảnh chụp nhanh, vậy báo cáo kết quả kinh doanh là một bức tranh chuyển động. Báo cáo kết quả kinh doanh là cầu nối giữa hai bảng cân đối kế toán liên tiếp. Nói một cách đơn giản, bảng cân đối kế toán thể hiện sự giàu có của công ty trong khi báo cáo kết quả kinh doanh thể hiện công ty đã có kết quả kinh doanh như thế nào trong năm trước đó.
Bảng cân đối kế toán và báo cáo kết quả kinh doanh cung cấp các thông tin khác nhau về công ty. Ví dụ, trường hợp công ty kiếm được nhiều lợi nhuận trong năm ngoái không nhất thiết đồng nghĩa rằng công ty có tính thanh tính/thanh khoản (khả năng trả các khoản nợ ngắn hạn bằng tài sản lưu động) hoặc khả năng trả nợ (tài sản phi lưu động đủ để trang trải các khoản nợ dài hạn). Công ty có thể báo cáo có mức thu nhập ròng đáng kể nhưng vẫn bị sụt giảm về giá trị ròng. Nói cách khác, để biết một tổ chức đó đang hoạt động như thế nào, cần thiết phải xem cả hai loại báo cáo này. Báo cáo kết quả kinh doanh tóm tắt kết quả hoạt động của công ty trong kỳ kế toán; các kết quả này được phản ánh trong nguồn vốn (giá trị ròng) trên bảng cân đối kế toán. Mối quan hệ này được minh họa trong Hình 5.1.
Loại báo cáo tài chính cơ bản thứ ba đó là báo cáo lưu chuyển dòng tiền. Loại báo cáo này cung cấp các thông tin hữu ích về dòng tiền vào và ra mà không thể thấy được trên bảng cân đối kế toán hay báo cáo kết quả kinh doanh.
Đăng ký:
Đăng Nhận xét (Atom)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét